Bài đăng

Hiển thị các bài đăng có nhãn Nghiên cứu khoa học

Mental health of adolescents in Ho Chi Minh City: Risk assessment and solutions

Hình ảnh
The World Health Organization (WHO) defines the age range of adolescents as between 10 and 19 years old. However, in Vietnam, there is no consensus on the age at which an individual is considered an adolescent. Legally, adolescents (referred to as "VTN" here) are considered individuals under the age of 18 (Van Khanh, 2019). This is a crucial period marked by the onset of puberty, primarily occurring between the ages of 12 to 16, which necessitates special attention due to various physical and psychological changes (Mason-Jones et al., 2012; Nguyen & Nguyen, 2009). Due to the complex nature of their development, adolescents face more psychological challenges than other age groups and are more likely to engage in deviant behaviors (Huynh et al., 2020; Sankar et al., 2017). Therefore, Social and Emotional Learning (SEL) plays a vital role in laying the foundation for their well-being, self-awareness, and effective coping mechanisms (Dam et al., 2013; Nguyen & Le, 2014). ...

Các giai đoạn Phát triển của Tình yêu: Góc nhìn Nghiên cứu - Robert Sternberg

Hình ảnh
Tình yêu là một khía cạnh quan trọng của cuộc sống con người, tạo nên sự gắn kết và cung cấp niềm hạnh phúc đích thực. Tuy nhiên, tình yêu không chỉ là một cảm xúc đơn thuần mà nó cũng có thể được coi là một quá trình phát triển. Nghiên cứu về tình yêu đã chỉ ra rằng có một số giai đoạn phát triển của tình yêu mà hầu hết mọi người trải qua trong mối quan hệ của họ. Bài viết này sẽ trình bày về các giai đoạn phát triển của tình yêu và cung cấp minh chứng từ các nghiên cứu. I. Giai đoạn hấp dẫn và mê hoặc (limerence) Giai đoạn đầu tiên trong quá trình phát triển của tình yêu được gọi là giai đoạn hấp dẫn và mê hoặc, hay còn được gọi là limerence. Trong giai đoạn này, cả hai người trong mối quan hệ đều cảm thấy mê hoặc và hứng thú với nhau. Mọi hành động và từng cử chỉ của đối tác đều khiến họ cảm thấy thăng hoa và hạnh phúc. Nghiên cứu của Helen Fisher, nhà tâm lý học tình yêu hàng đầu, đã chỉ ra rằng trong giai đoạn này, não bộ sản sinh các hóa chất như phenylethylamine (PEA) và oxytoci...

Năng lực của giáo viên làm công tác tham vấn tâm lý cho học sinh THCS so sánh theo biến số

Hình ảnh
Vũ Thu Trang - Khoa Tâm lý – Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội  TÓM TẮT  Kết quả khảo sát tổng số là: 527 người. Trong đó, 250 giáo viên, cán bộ quản lý trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tham vấn tâm lý tại trường THCS; 250 học sinh THCS được tham vấn tâm lý. Phỏng vấn sâu 27 giáo viên và học sinh THCS. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê về năng lực tham vấn (Kiến thức tham vấn, thái độ tham vấn, kĩ năng tham vấn, năng lực tham vấn chung) theo biến số giới tính, cấp học (trung học cơ sở, trung học phổ thông); trình độ được đào tạo của giáo viên; số khóa đào tạo. Có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê về năng lực tham vấn của giáo viên theo biến số tuổi của giáo viên; năm kinh nghiệm công tác của giáo viên. Từ khóa: Năng lực; Tham vấn tâm lý; Giáo viên; Học sinh.

Chân dung người làm nghiên cứu khoa học tâm lý

Hình ảnh
Với sự phát triển như vũ bão của xã hội nói chung và đời sống tâm lí nói riêng, kiến thức khoa học tâm lí trở nên thật sự cần thiết để giải quyết một số vấn đề cấp bách trong xã hội. Lựa chọn nghiên cứu khoa học tâm lí chính là lựa chọn con đường đi tìm tri thức mới trên nền những tri thức có sẵn và ứng dụng vào thực tế để giải quyết các vấn đề của xã hội.   Tuy nhiên con đường nghiên cứu Tâm lý học không phải dễ thực hiện mà thường vấp phải một số khó khăn lớn đòi hỏi người nghiên cứu khoa học tâm lí phải có năng lực và những kỹ năng để giải quyết vấn đề.  Đó là một số khó khăn về chọn lựa lĩnh vực nghiên cứu, các bước thực hiện xác định đề tài, cách thu thập thông tin, cách viết một tổng quan nghiên cứu, cách thực hiện một số phương pháp nghiên cứu định tính,... đối mặt và giải quyết tất cả những điều này chính là người nghiên cứu đang vạch ra con đường nghiên cứu khoa học tâm lí đúng đắn. Chúng ta phải thừa nhận rằng thực tế nghiên cứu khoa học tâm lí cho thấy có rất n...

Một số cách chọn mẫu trong nghiên cứu bằng phương pháp bảng hỏi

Khi tiến hành nghiên cứu bằng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, việc chọn mẫu khảo sát là rất quan trọng để đảm bảo tính đại diện và khả năng tổng quát hóa kết quả khảo sát. Dưới đây là một số cách chọn mẫu khảo sát bằng bảng hỏi: Mẫu ngẫu nhiên đơn giản: Chọn ngẫu nhiên một số người trong dân số tham gia khảo sát. Phương pháp này đảm bảo tính đại diện và có thể áp dụng cho các nghiên cứu có quy mô nhỏ. Mẫu ngẫu nhiên đa tầng: Chia dân số thành các tầng, sau đó chọn ngẫu nhiên một số đối tượng trong mỗi tầng. Phương pháp này đảm bảo tính đại diện và có thể áp dụng cho các nghiên cứu có quy mô lớn. Mẫu tùy chọn: Chọn các đối tượng cho khảo sát theo các tiêu chí cụ thể, ví dụ như đối tượng nghiên cứu phải có độ tuổi từ 18-30, phải có kinh nghiệm làm việc ít nhất 2 năm... Phương pháp này thường được sử dụng trong các nghiên cứu có đối tượng khó khăn để tiếp cận. Mẫu nguyên tắc: Chọn đối tượng khảo sát theo một quy tắc cụ thể, ví dụ như chọn tất cả các học sinh trong một trường học ...